thể thơ nói với con

Có thể nói, bài thơ "Nói với con" là một trong những bài thơ hay nhất về tình phụ tử thiêng liêng và cao cả trên thế giới. nó giống như chất tạo men, càng ủ lâu càng ngọt, thấm càng lâu. tình cảm gia đình là tình cảm vô cùng cao quý, thiêng liêng song hành với tình yêu Xem 10+ thể thơ nói với con được đánh giá cao Góc truyện tranh Bach Le • August 25, 2022 Globalizethis tổng hợp và liệt ra những thể thơ nói với con dưới đây hi vọng sẽ giúp các bạn có thêm những sự lựa chọn phù hợp và có thêm những thông tin bổ ích nhất Dưới đây là chia sẻ của nhà thơ Đỗ Trung Quân về bài thơ Bài học đầu cho con được tóm lược từ cuộc phỏng vấn của phóng viên Mặc Lâm (đài Á Châu Tự Do - RFA) với nhà thơ: " Bài này được đăng lần đầu vào năm 1986, xuất xứ của nó là hồi đó tôi đề tặng bé Vay Tiền Nhanh Chỉ Cần Cmnd Nợ Xấu. Bài thơ Nói với con đi vào lòng người đọc bởi một thứ tình cảm gần gũi nhưng thiêng liêng và cao quý tình cha con. Đó là tâm sự của một người cha dành cho con, là những điều mà cha muốn thổ lộ cho con nghe, con quát chung về bài thơ Nói với conHoàn cảnh sáng tácBài thơ “Nói với con” được nhà thơ Y Phương viết ở thời kì sau năm 1975, đất nước đã hòa bình, thống nhất nhưng vô cùng khó khăn, thiếu cục của bài thơMượn lời nói với con, nhà thơ gợi về cội nguồn sinh dưỡng mỗi con người, gợi về sức sống mạnh mẽ, bề bỉ của quê hương mình. Bài thơ chia làm hai đoạnĐoạn 1 từ đầu đến “Ngày đầu tiên đẹp nhất trê đời” Con lớn lên trong tình yêu thương, sự nâng đỡ của cha mẹ, trong cuộc sống lao động nên thơ của quê 2 phần còn lại Lòng tự hào về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, về truyền thống cao đẹp của quê hương và niềm mong ước con hãy kế tục xứng đáng truyền thống thơ đi từ tình cảm gia đình mà mở rộng ra tình cảm quê hương, từ những kỉ niệm gần gũi, thiết tha mà nâng lên lẽ điểm nội dung, nghệ thuậtBài thơ Nói với con thể hiện tình cảm thắm thiết của cha mẹ với con cái, tình yêu quê hương sâu nặng. niềm tự hào về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của dân tộc mình, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc thơ viết theo thể thơ tự do, linh hoạt trong diễn đạt mà vẫn giàu vần điệu; mang hình thức là lời tâm tình, dặn dò của người cha với con, tạo nên giọng điệu thiết tha, trìu mến, ấm áp và tin cậy; bố cục chặt chẽ, dẫn dắt tự nhiên, khiến lời dặn dò, tâm tình dễ mến, dễ thuyết phục; hình ảnh thơ cụ thể mà có tính khái quát, mộc mạc mà vẫn giàu chất thơ, mang đậm bản sắc thơ ca miền hướng tiếp cận bài thơĐoạn 1 Tình yêu thương của cha mẹ, sự đùm bọc của quê hương với thơ là lời một người cha miền núi nói với con. Lời đầu tiên cha nói với con là lời gợi nhắc về cội nguồn sinh dưỡng thiên liêng của mỗi con người, đó là gia đình và quê hương. Bốn câu thơ đầu như bộc lộ tứ bình xinh xắn về một gia đình hạnh phúc, gợi lên hình ảnh, không khí gia đình thật dầm ấm, quấn quit. Em bé đang lẫm chẫm tập đi, đang bi bô tập nói, lúc sà vào long mẹ, lúc níu tay cha. Con lớn lên trong yêu thương, trong sự nâng đón, mong chờ của cha mẹ. Từng bước đi, từng tiếng nói, tiếng cười của con đều được cha mẹ chăm chút, chở che, nâng đỡ, mừng vui đón nhận. Hình ảnh thơ ở đây thật cụ thể, gợi cảm mà giàu ý nghĩa khái quát, biểu tượngChân phải bước tới cha Chân trái bước tới mẹ Một bước chạm tiếng nói Hai bước tới tiếng cườiNhững câu thơ tiếp theo gợi về cội nguồn lớn rộng hơn đã nuôi dưỡng con, đó là quê hương. Từ trong gia đình, lớn dần lên, con sẽ cảm nhận được nguồn mạnh ấy. Đó là quê hương với những con người lao động mà cuộc sống thật nghĩa tình và thơ mộng. Người cha gợi nhắc cho con với một niềm tự hào và tình yêu chứa chanNgười đồng mình yêu lắm con ơi Đan lờ cài nan hoa Vách nhà ken câu hát Rừng cho hoa Con người cho những tấm lòng“Người đồng mình” – cách nói thật giản dị, ấm áp – chỉ người vùng mình, miền mình, những người cùng sống trong miền đất, quê hương, cùng dân tộc. Những câu thơ mở đầu bằng cụm từ “người đồng mình” đứng chốt ở bốn trọng điểm như những luyến láy, điệp cú, điệp khúc làm cho âm điệu, nhạc điệu thơ ngân vang, dào dạt, vừa nhấn mạnh ý, vương vấn tâm hồn bao bang khuâng man mác về nơi chon rau cắt rốn nặng nghĩa nặng tình. Cuộc sống lao động cần cù và tươi vui của “người đồng mình” được gợi lên qua những hình ảnh cụ thể mà giàu sức gợi cảm. Đan lờ đánh cá dưới bàn tay của người đồng mình đã thành nan hoa, vách nhà không chỉ được xen kẽ bằng gỗ mà bằng câu hát, bằng vẻ đẹp tâm hồn – hay chính là con người nơi đây đã tạo dựng ngôi nhà, cuộc sống của mình bằng chiều sâu của văn hóa, lối động từ “cài”, “ken” vừa diễn tả động tác, miêu tả cụ thể, vừa nói lên tình gắn bó, quấn quit. Con người nơi đây yêu lao động, yêu cái đẹp, biết làm đẹp cho cuộc sống. Còn rừng núi quê hương thì thật thơ mộng và nghĩa tình. Rừng không chỉ cho gỗ cho măng mà còn cho hoa. Con đường thì cho những tấm long nhân hậu bao dung. Đó là con đường đi vào làng vào bản, đi vào thung vào rừng, đường ra sông ra suối, con đường đi học, con đường làm ăn, đường đi tới mọi chân trời góc biển, những con đường đã nâng gót những đứa con yêu. Thiên nhiên ấy ban tặng cái đẹp cho con người và chở che, nuôi cưỡng con người cả về tâm hồn, lối sống “Rừng cho hoa – Con đường cho những tấm lòng”. Cách nói mộc mạc, giản dị gợi liên tưởng sâu 2 Những đức tính cao đẹp của người đồng mình và mong ước của người cha qua lời tâm tình với conQua việc ca ngợi những đức tính cao đẹp của người đồng mình, người cha gợi cho con long tự hào về quê hương, dân tộc, dặn dò con cần kế tục, phát huy một cách xứng đáng truyền thống của quê thơ điệp lại “Người đồng mình thương lắm con ơi” chỉ khác chữ “thương” như một điệp khúc vang lên đầy yêu thương, tự hào, mà như lời nhắc nhở thiết tha, đồng thời mở ra một ý mớiNgười đồng mình thương lắm con ơi Cao đo nỗi buồn Xa nuôi chí lớn Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn Sống trên đá không chê đá gập ghềnh Sống trong thung không chê thung nghèo đói Sống như song như suối Lên thác xuống ghềnh Không lo cực nhọc“Người đồng mình” không chỉ cần cù, khéo léo, tình nghĩa, tài hoa, yêu đời mà còn có bao phẩm chất tốt đẹp đáng “thương lắm con ơi”. Trải qua bao gian nan thử thách, bao niềm vui nỗi buồn, bà con quê mình đã rèn luyện, đã hun đúc ý chí, đã “Cao đo nỗi buồn – Xa nuôi chí lớn”, nâng cao tâm thế đẹp. Hai câu thơ bốn chữ cô đúc, đăng đối như tục ngữ, đúc kết một thái độ, một phương châm ứng xử cao quí. “Người đồng mình” sống vất vả mà mạnh mẽ, khoáng đạt, bền bỉ gắn bó với quê hương dẫu còn cực nhọc, đói giả lấy những từ ngữ, hình ảnh diễn tả khoảng cách không gian cao, xa, như song, như suối, lên thác xuống ghềnh để nói lên tâm hồn và chí hướng mạnh mẽ, phóng khoáng; lấy những hình ảnh “đá gập ghềnh”, “lên thác xuống ghềnh” để nói về cuộc sống còn nghèo đói, nhọc nhằn. Điệp từ “sống” và nhịp thơ luôn chảy, mạnh mẽ gợi lên sức sống mãnh liệt, bền bỉ của con người trước cuộc sống nhiều gian truân, vất vả. Những đứa con của đá, sống trên đá thật bền gan vững chí. “Người đồng mình” đầy nghị lực và lạc quan để vươn lên, vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt và vẫn đầy long yêu mến, tự hào về quê đó, người cha mong con phải có nghĩa tình chung thủy với quê hương, biết chấp nhận và vượt qua gian nan, thử thách bằng ý chí, nghị lực, niềm tin. Quê hương sau những năm dài chiến tranh còn cơ cực, đói nghèo, con phải biết gắn bó và san sẻ, không được chê, không được lo, phải sống cao thượng và mãnh liệt “như song như suối”.Mạch tâm tình của người cha vẫn được tiếp nối, lời dặn dò ngày càng sâu lắng, thiết tha và nghiêmNgười đồng mình thô sơ da thịt Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương Còn quê hương thì làm phong tục Con ơi tuy thô sơ da thịt Lên đường Không bao giờ nhỏ bé được Nghe Phương vẫn dung lời nói quen thuộc của người miền núi, cách nói cụ thể, giàu hình ảnh mà đầy ẩn nghĩa, mang màu sắc triết lí, suy tư. “Người đồng mình” mộc mạc, giản dị nhưng không tầm thường, nhỏ bé, mà giàu lòng tự trọng, giàu chí khí, niềm tin, giàu có về tâm hồn, và giàu khát vọng xây dựng quê hương. Chính những con người ấy bằng sự lao động cần cù, nhẫn nại hằng ngày đã làm nên quê hương với truyền thống, với phong tục tập quán tốt đẹp, mang đậm bản sắc văn hóa đó, người cha đã truyền cho con niềm tự hào về vẻ đẹp và sức mạnh của truyền thống quê hương, về phẩm chất của cha anh dân tộc. Và cũng từ đó, người cha nhắc con phải sống xứng đáng với “người đồng mình”, tự tin mà vững bước trên đường đời, sống cao đẹp như cha anh, không cúi đầu trước khó khăn thử thách, không nhỏ bé tầm thường trước thiên hạ để “kê cao quê hương”, làm cho quê hương ngày một phát triển. Lời người cha chứa chan tình cảm trìu mến, thiết tha và niềm tin tưởng. Điều cha tâm tình với con vượt lên tình cảm gia đình, trở thành lời gửi trao thiêng liêng giữa các thế tác giả Y Phương“Những năm cuối bảy mươi, đầu tám mươi của thế kỉ XX, đời sống tinh thần và vật chất cúa nhân dân cả nước nói chung, nhân dân các dân tộc thiểu số ở miền núi nói riêng vô cũng khó khan thiếu thốn. Bởi vì đất nước ta vừa rời khỏi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ lâu dài và cực kì gian khổ. Hiện thực xã hội ấy đã tác động sâu sắc đến đời sống con người. Đại bộ phận nhân dân ta vẫn kiên trì khắc phục và tìm mọi cách để vượt qua duy trì cuộc sống. Họ vẫn tồn tại và không ngừng sinh trưởng là không phải nhờ vào phép màu của lực lượng thiên nhiên nào mà chỉ dựa vào sức mạnh tinh thần của truyền thống văn hóa từ ngàn đời ông cha để năm 1975, tôi cũng mới từ mặt trận trở về, sau tám năm đánh giặc xa nhà quay trở về lấy vợ sinh con trong bối cảnh túng thiếu bần hàn chung của toàn xã hội. Nhìn con cầm bát cơm ăn không thịt cá mà long xót đau khôn tả. Bởi chúng tôi cũng như nhiều gia đình cán bộ khác chỉ sống bằng đồng lương quá ít ỏi. Hàng hóa khan hiếm, giá cả leo thang từng ngày đến chóng mặt. Bên cạnh cái tốt của những người làm ăn lương thiện, không ít con người bị tha hóa, biến chất. Họ buôn bán gian lận, lợi dụng kẽ hở của nhà nước móc nối làm ăn phi pháp. Ở miền Nam, một bộ phận nhỏ công chức dưới ngụy quyền Sài Gòn không chịu được đã tìm mọi cách để vượt biên trốn ra nước hiện thực khó khan ngày ấy, tôi làm bài thơ này để tâm sự với chính mình, động viên mình, đồng thời là để nhắc nhở con cái sau này”.Ý kiến của Nguyễn Trọng Hoàn“Thể thơ tự do, với số câu chữ không theo khuôn định phù hợp với mạch cảm xúc tự nhiên, linh hoạt của bài thơ. Nhịp điệu lúc bay bổng, nhẹ nhàng, lúc rành rọt, lúc mạnh mẽ, săc nhọn,… tạo ra sự cộng hưởng hài hòa với những cung bậc tình cảm khác nhau trong lời người cha truyền thấm sang con. Ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng, hình ảnh mộc mạc, cô đọng mà vẫn phong phú, sinh động, quyến Phương thấu hiểu và bởi vậy lột tả được cái hồn cốt trong bản sắc truyền thống của người dân tộc miền núi. Cha nói với con hay chính là lời trao gửi thế hệ vậy!”.Nguyễn Trọng Hoàn – Đọc hiểu văn bản. Ngữ văn 9, Sdd GHI NHỚ NHANH THÔNG TIN TÁC GIẢ, TÁC PHẨM “NÓI VỚI CON” Có rất nhiều bạn học sinh trở nên sợ học Văn vì có quá nhiều các tác phẩm văn học với tác giả, thể loại khác nhau. Ngữ pháp thì đa dạng và phong phú. Để khắc phục được tình trạng sợ Văn đó, hôm nay Học văn chị Hiên sẽ chia sẻ tới các thông tin về tác giả, tác phẩm của bài thơ “Nói với con” nhé! I. Thông tin tác giả, tác phẩm 1. Thông tin về tác giả - Y Phương sinh năm 1948 tên thật là Hứa Vĩnh Sước - Quê quán tại Trùng Khánh - tỉnh Cao Bằng , ông là người dân tộc Tày - Sự nghiệp sáng tác + Y Phương nhập ngũ năm 1968, phục vụ trong quân đội đến năm 1981 chuyển về công tác tại sở văn hóa và thông tin tỉnh Cao Bằng + Năm 1993 ông là chủ tịch hội văn nghệ Cao Bằng + Năm 2007 ông được nhận giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật. Đây chính là một giải thưởng cao quý rất xứng đáng với những gì Y Phương đã cống hiến cho nền văn học nước nhà. + Các tác phẩm tiêu biểu “Người hoa núi”, “Lời chúc”, “Đàn then”… - Phong cách sáng tác + Thơ của ông thể hiện tâm hồn mạnh mẽ, chân thực và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người dân tộc miền núi, mang đậm bản sắc vùng cao. SOẠN VĂN "NÓI VỚI CON" 2. Thông tin về tác phẩm a. Hoàn cảnh sáng tác - Bài thơ “Nói với con” được sáng tác năm 1980, khi đất nước mới hòa bình thống nhất nhưng còn gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Từ hiện thực ấy, nhà thơ đã sáng tác bài thơ như lời tâm sự, động viên chính mình đồng thời nhắc nhở con cái sau này. b. Thể thơ và phương thức biểu đạt - Thể thơ Tự do - Phương thức biểu đạt Tự sự + Miêu tả + Biểu cảm c. Bố cục Gồm 2 phần - Đoạn 1 Con lớn lên trong tình yêu thương, sự giúp đỡ của cha mẹ , trong cuộc sống lao động của quê hương. - Đoạn 2 Lòng tự hào về sức sống bền bỉ, mạnh mẽ về truyền thống cao đẹp của quê hương và niềm mong ước con sẽ kế tục những truyền thống đáng quý c. Giá trị nội dung bài thơ - Bài thơ “Nói với con” thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống và niềm tự hào về quê hương, dân tộc của mình. Bài thơ đã giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhắc đến tình cảm đẹp đẽ với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống. MỞ BÀI "NÓI VỚI CON" - Y PHƯƠNG SIÊU CHẤT NGỮ VĂN LỚP 9 d. Giá trị nghệ thuật - Bài thơ được viết theo thể thơ tự do phóng khoáng làm cho cảm xúc cụ thể, rõ ràng, giọng điệu thơ trìu mến, thiết tha. Ngôn ngữ thơ cụ thể và hàm súc, nhiều ý nghĩa, hình ảnh thơ độc đáo, sinh động mang đậm bản sắc thơ ca miền núi cũng là những nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm. II. Tìm hiểu văn bản 1 Những cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con Từ đầu cho đến “Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời” a Trong những lời tâm tình, tác giả nói với con cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con trước hết là gia đình “ Chân phải bước tới cha Chân trái bước tới mẹ Một bước chạm tiếng nói Hai bước tới tiếng cười” - Sử dụng hệ thống từ ngữ giàu giá trị tạo hình “ chân phải”, “ chân trái”, “một bước”, “hai bước” gợi cho chúng ta liên tưởng đến những bước chân chập chững đầu tiên của một em bé trong sự vui mừng của cha mẹ. - Thủ pháp liệt kê thứ nhất qua hình ảnh “ tiếng nói”, “ tiếng cười” đã tái hiện được hình ảnh của một em bé đang ở lứa tuổi bi bô tập nói đồng thời gợi đến khung cảnh của một gia đình đầm ấm, hòa thuận luôn tràn đầy niềm vui, hạnh phúc, tràn đầy tiếng nói, tiếng cười. - Thủ pháp liệt kê thứ hai qua hình ảnh “ tới cha”, “ tới mẹ” đã tái hiện hình ảnh em bé đang chập chững tập đi, lúc thì sà vào lòng mẹ, khi lại níu lấy tay cha, gợi lên ánh mắt như đang dõi theo và vòng tay dang rộng đón đợi của cha mẹ. - Nhịp thơ 2/3 với cáu trúc đối xứng đã tạo nên một âm điệu, không khí vui tươi và gợi đến một mái ấm gia đình hạnh phúc. => Lời thơ giản dị như một lời tâm tình thủ thỉ, Y Phương đã nói với con, gia đình chính là cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con. Vì thế, trên hành trình vạn dặm của cuộc đời, con không được phép quên. b Cùng với gia đình, thì quê hương chính là mạch nguồn không thể thiếu nuôi dưỡng con khôn lớn và trưởng thành “ Người đồng mình yêu lắm con ơi Đan lờ cài nan hoa Vách nhà ken câu hát Rừng cho hoa Con đường cho những tấm lòng” - Quê hương được gới thiệu qua lối nói hình ảnh của người vùng cao - “ người đồng mình”. "Người đồng mình" là người vùng mình, người quê hương. Đây là cách nói giản dị, thân thuộc, mộc mạc của người miền núi. - Cách giới thiệu hình ảnh ấy lại đi liền với hô ngữ “ con ơi” khiến lời của cha với con thật trìu mến, thân thương. - Hệ thống hình ảnh giàu sức gợi + “ Đan lờ cài nan hoa” tả thực công cụ lao động còn thô sơ được “người đồng mình” trang trí trở nên đẹp đẽ; gợi đôi bàn tay cần cù, khéo léo, tài hoa và giàu sáng tạo của “người đồng mình”, đã khiến cho những nan nứa, nan tre đơn sơ, thô mộc trở thành “ nan hoa” + “ Vách nhà ken câu hát” đã tả thực lối sinh hoạt văn hóa cộng đồng, khiến cho những vách nhà như được ken dầy trong những câu hát, gợi một thế gới tâm hồn tinh tế và tràn đầy lạc quan của người vùng cao. - Các động từ “cài, ken” vừa miêu tả được động tác khéo léo trong lao động vừa gợi sự gắn bó của những “ người đồng mình” trong cuộc sống lao động. - Thủ pháp nhân hóa + “Rừng cho hoa”, tả thực vẻ đẹp của những rừng hoa mà thiên nhiên, quê hương ban tặng, gợi sự giàu có hào phóng của thiên nhiên, quê hương. + “ Con đường cho những tấm lòng”, gợi liên tưởng đến những con đường trở về nhà, về bản; gợi đến tấm lòng tình cảm của “người đồng mình” với gia đình, quê hương, xứ sở. - Điệp từ “cho” cho thấy tấm lòng rộng mở, hào phóng, sẵn sàng ban tặng tất cả những gì đẹp nhất, tuyệt vời nhất của quê hương, thiên nhiên. => Nếu như gia đình là cội nguồn sinh thành và dưỡng dục con thì quê hương bằng văn hóa lao động đã nuôi dưỡng và chở che cho con thêm khôn lớn, trưởng thành. c Cuối cùng, tác giả tâm sự với con về kỉ niệm êm đềm, hạnh phúc nhất của cha mẹ. Bởi đó cũng là cội nguồn để sinh thành nên con “Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời” - “Nhớ về ngày cưới” là nhớ về kỉ niệm cho sự khởi đầu của một gia đình. Nó là minh chứng cho tình yêu và con chính là kết tinh từ tình yêu ấy. - “ Ngày đầu tiên đẹp nhất” đó có thể là ngày cưới của cha mẹ, nhưng cũng có thể là ngày đầu tiên con chào đời.=> Đoạn thơ là lời dặn dò, nhắn nhủ tâm tình của người cha về cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con Gia đình, quê hương chính là những nền tảng cơ bản để tiếp bước cho con khôn lớn, trưởng thành. Bởi vậy, con phải luôn sống bằng tất cả tình yêu và niềm tự hào. => Đoạn thơ là lời dặn dò, nhắn nhủ tâm tình của người cha về cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con Gia đình, quê hương chính là những nền tảng cơ bản để tiếp bước cho con khôn lớn, trưởng thành. Bởi vậy, con phải luôn sống bằng tất cả tình yêu và niềm tự hào. 2 Những phẩm chất cao quí của người đồng mình và lời khuyên của cha Phần còn lại a Trong lời tâm tình về nguồn cội sinh thành và nuôi dưỡng con , người cha đã khéo léo “đan”, “cài” những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình “Người đồng mình thương lắm con ơi! Cao đo nỗi buồn Xa nuôi chí lớn” - Động từ “ thương” đi liền với từ chỉ mức độ “lắm” để bày tỏ sự đồng cảm với những nỗi vất vả, khó khăn của con người quê hương. - Hệ thống từ ngữ giàu sức gợi qua các tính từ “ cao, xa” gợi liên tưởng đến những dãy núi cao, trùng điệp là nơi cư trú của đồng bào vùng cao. Những tính từ này được sắp xếp theo trình tự tăng tiến, gợi những khó khăn như chồng chất khó khăn để thử thách ý chí con người. - Hệ thống hình ảnh mang tư duy của người miền núi, khi tác giả lấy cao của trời, của núi để đo nỗi buồn, lấy xa của đất để đo ý chí con người. => Câu thơ đượm chút ngậm ngùi, xót xa để diễn tả thực tại đời sống còn nhiều những khó khăn, thiếu thốn của đồng bào vùng cao. Đồng thời, cũng đầy tự hào trước ý chí, nghị lực vươn lên của họ. Từ phẩm chất của người đồng mình, Y Phương tiếp tục nói với con về ý chí và vẻ đẹp truyền thống của người vùng cao “ Người đồng mình thô sơ da thịt Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương Còn quê hương thì làm phong tục” - Nghệ thuật tương phản + “Hình ảnh thô sơ da thịt” đã tả thực vóc dáng, hình hài nhỏ bé của “người đồng mình” + Cụm từ “chẳng mấy ai nhỏ bé” gợi ý chí, nghị lực phi thường, vượt lên hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của “người đồng mình” -> Nghệ thuật tương phản đã làm tôn lên “tầm vóc”, “vóc dáng” của “người đồng mình” họ có thể còn “thô sơ da thịt” nhưng họ không hề yếu đuối. - Hình ảnh “tự đúc đá kê cao quê hương” vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc + Tả thực quá trình dựng nhà, dựng bản của của người vùng cao, được kê trên những tảng đá lớn để tránh mối mọt. + Ẩn dụ cho tinh thần tự lực cánh sinh, họ đã xây dưng và nâng tầm quê hương. - Trong quá trình dựng làng, dựng bản, dựng quê hương ấy, chính họ đã làm nên phong tục, bản sắc riêng cho cộng đồng. => Câu thơ tràn đầy niềm tự hào về nhũng phẩm chất đáng quý của người dồng minh. Từ đó Y Phương nhắn nhủ, răn dạy con phải biết kế thừa, phát huy những vẻ đẹp của con người quê hương. b Lời khuyên của người cha Hãy biết sống theo những truyền thống tốt đẹp của người đồng mình “Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn Sống trên đá không chê đá ghập ghềnh Sống trong thung không chê thung nghèo đói Sống như sông như suối Lên thác xuống ghềnh Không lo cực nhọc” - Điệp từ “sống” được lặp đi lặp lại liên tiếp đã tô đậm được mong ước mãnh liệt của cha dành cho con. - Hình ảnh ẩn dụ và phép liệt kê “đá ghập ghềnh” và “thung nghèo đói” + Gợi không gian sống hiểm trở, khó làm ăn, canh tác + Gợi đến cuộc sống nhiều vất vả, gian khó và đói nghèo => Từ đó, người cha mong muốn ở con hãy biết yêu thương, gắn bó, trân trọng quê hương mình - Hình ảnh so sánh “Sống như sông như suối” + Gợi về cuộc sống bình dị, hồn nhiên, gắn bó với thiên nhiên. + Gợi lối sống trong sáng, phóng khoáng, dào dạt tình cảm như sông như suối. => Từ đó, người cha mong muốn ở con một tâm hồn trong sáng, phóng khoáng như thiên nhiên. - Thủ pháp đối “lên thác”> Đoạn thơ là lời khuyên của cha, khuyên con hãy tiếp nối cái tình cảm ân nghĩa, thủy chung với mảnh đất mà mình sinh ra. Hãy tiếp nối cả ý chí can đảm, lòng kiên cường của người đồng mình. Khép lại bài thơ, là lời dặn dò vừa ân cần, trìu mến vừa nghiêm khắc của người cha “Con ơi tuy thô sơ da thịt Lên đường Không bào giờ được nhỏ bé Nghe con” - Hai tiếng “lên đường”, cho thấy người con đã khôn lớn, trưởng thành, có thể tự tin, vững bước trên đường đời. - Hình ảnh thơ được lặp lại “thô sơ da thịt” như là lời khẳng định để khắc sâu trong tâm trí con, rằng con cũng là người đòng mình, cũng mang hình hài, vóc dáng nhỏ bé - Nhưng con “không bao giờ được nhỏ bé” mà phải kiên cường, bản lĩnh để đương đầu với những gập ghềnh, gian khó của cuộc đời. - Hai tiếng “nghe con” nghe thật thiết tha, ân cần, xúc đọng, ẩn chứa biết bao mong muốn của người cha.=> Với giọng điệu thiết tha, tâm tình, trìu mến, người cha đã gửi gắm cho con bài học quý giá, để trên suốt hành trình dài rộng của cuộc đời con mãi mãi khắc ghi. Mong rằng những thông tin về tác giả, tác phẩm của bài thơ “Nói với con” trên đây sẽ giúp các em dễ dàng hơn trong quá trình học tập và đạt thành tích cao nhé. Để hiểu hơn về toàn bộ các tác giả cùng kiến thức tác phẩm trong chương trình Ngữ văn 9 và nhiều thông tin bổ ích khác nữa hãy nhanh sở hữu bộ "Sổ tay văn học" nhé! Xem bản đọc thử Tại đây Cập nhật thêm những bài viết hay tại các kênh truyền thông của HVCH Fanpage Học văn chị Hiên Youtube Học văn chị Hiên - Youtube IG Học văn chị Hiên Tiktok Học văn chị Hiên Chúc các bạn nhỏ luôn học tốt! Học văn chị Hiên - Hơn cả một bài văn

thể thơ nói với con